Art Brut hay còn có thể gọi là nghệ thuật của những người ngoài cuộc, họ vốn đã xuất hiện rất lâu, song song cùng với dòng nghệ thuật đương đại chính thống. Tuy nhiên, vì cách phân loại này mà phần nào đó trong số họ ít được công nhận và xem như là một nhánh khác của nghệ thuật. Bài viết này sẽ giới thiệu cho bạn lịch sử hình thành của nhóm nghệ thuật này, cũng như về những con người đang thầm lặng làm nghệ thuật.
Một điều đáng buồn rằng không ít các nghệ sĩ thuộc nhóm Art Brut đều được phát hiện sau khi họ đã mất. Tuy nhiên, chuyện này cũng có những nguyên nhân khách quan của nó. Một điều tích cực là thuật ngữ Art Brut chúng ta đang dùng hiện tại là nhờ nghệ sĩ Jean Dubuffet đã đúc kết lại sau những tìm kiếm và sựu tập các tác phẩm của các nghệ sĩ ngoài cuộc. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về thời sơ khai của xu hướng nghệ thuật này.
Những nghiên cứu về tâm thần học
1) Adolf Wolfli và Walter Morganthaler
Sự phát triển về mặt nhận thức về các loại hình sáng tạo đang tồn tại bên ngoài các chuẩn mực văn hóa dần được chấp nhận. Điều này bắt nguồn từ những nghiên cứu của các nhà tâm thần học vào đầu thế kỷ 20.
|
Nghệ thuật của Adolf Wolfli - Walter Morgentbaler
|
|
Công trình nghiên cứu của tiến sĩ Walter Morganthaler (1882 – 1965) đã ghi chép lại về bệnh nhân của ông là Adolf Wolfli (1864-1930), một nghệ sĩ thiên tài đã tạo ra hàng nghìn tác phẩm trong phòng giam nhỏ tại trại tị nạn Thụy Sĩ. Wölfli bị lạm dụng cả về thể chất và tình dục khi còn nhỏ, và mồ côi ở tuổi lên 10. Sau đó, ông trải qua tuổi thơ ở một loạt các nhà nuôi dưỡng do nhà nước quản lý. Ông đã làm Verdingbub (lao động trẻ em có hợp đồng) và gia nhập quân đội một thời gian ngắn. Các vấn đề tâm thần của ông dẫn đến việc quấy rối tình dục các phụ nữ trẻ và ông bị bắt. Năm 1895, sau một vụ bắt giữ tương tự khác, ông được đưa vào Phòng khám Waldau, một bệnh viện tâm thần ở Bern và sống nốt phần đời còn lại của mình ở đây. Ông là một người rất phiền phức và đôi khi bạo lực đến mức nhập viện, dẫn đến việc ông bị cách ly. Căn bệnh rối loạn thần kinh dẫn đến việc ông bị ảo giác dữ dội.
Vào một thời điểm bị cách ly, Wölfli đã bắt đầu vẽ. Những tác phẩm đầu tiên còn sót lại của ông (một loạt 50 bức vẽ bằng bút chì) từ năm 1904 đến năm 1906. Walter Morgenthaler, một bác sĩ tại phòng khám, đặc biệt quan tâm đến nghệ thuật của Wölfli và tình trạng của ông, sau đó đã xuất bản cuốn "Ein Geisteskranker als Künstler" (Một nghệ sĩ trong hình hài bệnh nhân tâm thần) vào năm 1921, tác phẩm đã khiến Wölfli thu hút sự chú ý của thế giới nghệ thuật.
|
Adolf Wolfli |
Cuốn sách của Morgenthaler đã trình bày chi tiết các tác phẩm của một bệnh nhân trước đây vốn không có hứng thú với nghệ thuật và đã phát triển tài năng và kỹ năng của mình một cách độc lập sau khi cam kết vì tình trạng suy nhược. Về mặt này, Wölfli là một biểu tượng và có ảnh hưởng đến sự phát triển và chấp nhận của các nghệ thuật ngoài cuộc.
Wölfli đã tạo ra một số lượng lớn các tác phẩm trong suốt cuộc đời của mình, ông thường làm việc trong tình trạng thiếu thốn vật liệu và trao đổi các tác phẩm nhỏ với những khách hàng đến phòng khám để lấy bút chì, giấy hoặc những thứ cần thiết khác. Morgenthaler đã quan sát rất kỹ các phương pháp của Wölfli, viết trong cuốn sách của ông:
"Mỗi sáng thứ Hai, Wölfli được đưa cho một cây bút chì mới và hai tờ giấy báo lớn chưa in. Cây bút chì được sử dụng hết chỉ trong hai ngày; sau đó anh ta phải làm với những mẩu giấy mà mình đã để dành hoặc bằng bất cứ thứ gì mà mình có thể cầu xin từ người khác. Anh ta thường viết bằng những mảnh chỉ dài từ 5 đến 7 mm và thậm chí có cả những đầu chì đứt đoạn, anh đã xử lý khéo léo bằng cách giữ chúng giữa các móng tay. Anh cẩn thận thu thập giấy đóng gói và bất kỳ loại giấy nào khác mà mình có thể nhận được từ các lính canh và bệnh nhân trong khu vực; nếu không anh sẽ hết giấy trước đêm chủ nhật tiếp theo. Vào dịp Giáng sinh, phòng khám sẽ tặng anh ta một hộp bút chì màu, nó chỉ có thể dùng được dài nhất là hai hoặc ba tuần."
Những hình ảnh mà Wölfli tạo ra rất phức tạp, phức tạp và dữ dội. Chúng kéo dài đến các mép của tờ giấy với các đường viền chi tiết. Hình ảnh của ông cũng kết hợp một ký hiệu âm nhạc riêng. Ký hiệu này bắt đầu là một cách trang trí nhưng sau đó đã phát triển thành tác phẩm thực sự mà Wölfli sẽ chơi trên một chiếc kèn giấy.
|
Ghi chú nốt nhạc - Adolf Wolfli. |
Đương nhiên, câu hỏi được đặt ra nhiều nhất là liệu bản nhạc của Wölfli có thể chơi được không. Câu trả lời là có dù hơi khó khăn. Các bản thảo nhạc năm 1913 đã được Kjell Keller và Peter Streif phân tích vào năm 1976 và đã được trình diễn. Đây là những điệu nhảy như Wölfli đã thể hiện, những điệu valse, mazurkas và polkas tương tự như giai điệu dân gian. Làm thế nào Wölfli có được kiến thức về âm nhạc cũng như không được học về nhạc lý? Ông đã nghe hát trong nhà thờ làng và có lẽ chính ông đã hát theo. Ở đó, có thể ông đã thấy và đọc những cuốn sách về bài hát từ thế kỷ 18 với những khuôn nhạc sáu dòng (ông liên tục sử dụng sáu dòng trong ký hiệu âm nhạc của mình). Trong các lễ hội, ông đã nghe nhạc khiêu vũ, và trong các dịp quân sự, ông đã nghe những cuộc hành quân mà mình rất yêu thích. Quan trọng hơn việc đánh giá cụ thể các ký hiệu âm nhạc là quan niệm của Wölfli về việc xem và thiết kế toàn bộ bản nhạc của mình như một tác phẩm âm nhạc khổng lồ. Yếu tố cơ bản làm nền tảng cho các sáng tác của ông là nhịp điệu. Nhịp điệu không chỉ lan tỏa trong âm nhạc mà còn trong các bài thơ và văn xuôi của ông, và còn có một dòng chảy nhịp điệu đặc biệt trong chữ viết tay của ông.
|
Sảnh cạo râu, 1926. |
|
Góc nhìn bao quát hòn đảo Neveranger, 1911 |
Sau khi Wölfli qua đời tại Waldau vào năm 1930, các tác phẩm của ông được đưa đến Bảo tàng Phòng khám Waldau ở Bern. Sau đó, Quỹ Adolf Wölfli được thành lập để bảo tồn nghệ thuật của ông cho các thế hệ sau. Bộ sưu tập của nó hiện được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật ở Bern.
2) Hans Prinzhorn và cuốn 'kinh thánh' của chủ nghĩa Siêu thực
Hans Prinzhorn (1886-1933) có một sự nghiệp đa dạng. Ông đã trở thành sinh viên triết học và lịch sử nghệ thuật, trước khi theo học âm nhạc ở London. Sau đó, ông chuyển sang ngành y, được đào tạo như một bác sĩ tâm thần vào năm 1919. Tại phòng khám Tâm thần Heidelberg, ông bắt đầu công việc của mình, không chỉ thông qua việc quan sát bệnh nhân mà còn phân tích quá trình sản xuất nghệ thuật của họ. Ông cũng đã xây dựng một bộ sưu tập: hơn 5000 bức tranh, bản vẽ và điêu khắc được thu thập từ các trại tị nạn khác nhau tại đó và xung quanh Heidelberg, chủ yếu là từ những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt.
|
Nghệ thuật của bệnh tâm thần, Hans Prinzhorn. Đây được xem là cuốn kinh thánh của các nghệ sĩ Siêu thực. |
Một năm sau khi bác sĩ tâm thần Walter Morgenthaler xuất bản cuốn sách về cuộc đời và tác phẩm nghệ thuật của Adolf Wölfli, Prinzhorn đã xuất bản "Bildnerei der Geisteskranken" (Nghệ thuật của bệnh tâm thần), một văn bản mang tính bước ngoặt trong lịch sử về suy nghĩ về bệnh tâm thần và sự sáng tạo. Nghiên cứu đột phá của Prinzhorn là công trình đầu tiên thuộc loại này, thu hút được nhiều sự chú ý trong giới nghệ thuật tiên phong bấy giờ như Paul Klee, Max Ernst và Jean Dubuffet.
Ông xác định sáu động lực cơ bản dẫn đến việc sáng tạo: sự thôi thúc biểu hiện, sự thôi thúc vui chơi, sự thôi thúc trang trí, khuynh hướng tự ra lệnh, khuynh hướng bắt chước và nhu cầu vẽ các biểu tượng. Đối với Prinzhorn, việc tạo ra hình ảnh được thúc đẩy bởi mong muốn mãnh liệt của họ là để lại di sản:
"Khi chúng ta phủ hết một tờ giấy bằng những nét vẽ nguệch ngoạc, hay một đứa trẻ sắp xếp những viên sỏi nhiều màu sắc trên chiếc bánh làm từ bùn của mình, hoặc khi chúng ta trồng hoa trong vườn, một tính chất chung của các hoạt động khác nhau này là làm phong phú thế giới bên ngoài bằng việc bổ sung các yếu tố tri giác. Đó là mục đích cuối cùng về mặt tâm lý, giống như nhu cầu hoạt động vốn không thể thay đổi được - một sự thôi thúc ở con người không bị hấp thụ một cách thụ động bởi môi trường của mình, mà gây ấn tượng bằng những vết tích về sự tồn tại của bản thân ngoài những hoạt động có chủ đích."
Cuốn sách đã tạo ra những làn sóng khi nó được xuất bản, không chỉ trong y học mà còn trong thế giới nghệ thuật. Nó phản ánh sự phá vỡ yêu sách của nền văn hóa đối với "nền văn minh", phơi bày sự khốn cùng và hỗn loạn ở trung tâm của cuộc sống hiện đại. Ngược lại, cuốn sách đã mang lại tiếng nói cho những người trước đây bị gạt ra ngoài lề xã hội: những kẻ tù tội, những người bị coi là mất trí, những người nghèo khổ, những người không được đi học, và những người sống trong nhầm thể chế.
|
Xem thêm một số tác phẩm khác trong bộ sưu tập của Prinzhorn tại đây. |
Nhìn lại, có điều gì đó đáng ngại đối với cuộc nghiên cứu. Prinzhorn đã xác định một phong cách đã được đặt tên vào hơn một thập kỷ sau với sự trỗi dậy của Chủ nghĩa xã hội ở Đức, là "thoái hóa" (Entartete). Những tác phẩm như vậy được coi là trái ngược với "nguyên bản". Các cuộc triển lãm đáng chú ý nhất là ở Munich vào năm 1937, được tổ chức và trưng bày những tác phẩm "thoái hóa" này. Các nghệ sĩ như Paul Klee và Wassily Kandinsky đã được giới thiệu cùng với hàng trăm người khác, thậm chí cả bệnh nhân của Prinzhorn. Những người bị tâm thần và những người tiên phong ở đây được đánh đồng rằng cả hai đều bệnh hoạn như nhau. Hàng triệu du khách đã đổ xô đến các buổi biểu triển lãm, và tại đó, họ đã tuân theo việc thực thi các chính sách kiểm duyệt, bắt bớ và đàn áp trên quy mô lớn.
Đây không phải là câu chuyện đầu tiên. Kho lưu trữ khổng lồ các bản vẽ và tranh vẽ của Prinzhorn vẫn là minh chứng cho một tinh thần vẫn luôn tìm cách truyền tiếng nói cho những người không có. Nhìn vào những bức tranh này là để cho phép những tiếng nói này cất lên lần nữa, để có thể lắng nghe trong phạm vi rộng lớn và rút bài học cho con người, nếu không thì họ sẽ bị lịch sử lãng quên và chôn vùi.
3) Nghiên cứu của Leo Navratil
Leo Navratil (1921-2006) là một bác sĩ tâm thần người Áo làm việc tại Phòng khám Tâm thần Bang Gugging ở Lower Austria. Ông là người đã phát hiện và bảo trợ cho thế hệ nghệ sĩ Gugging đầu tiên, bao gồm Johann Hauser, Ernst Herbeck, Philipp Schöpke, Oswald Tschirtner và August Walla. Ông đặt ra thuật ngữ "Zustandsgebundene Kunst" (nghệ thuật ràng buộc) của những người có nền tảng bệnh tâm thần hoặc khuyết tật nói chung và liên quan đến các nghệ sĩ thuộc Gugging nói riêng. Đương nhiên rằng đây đã trở thành một khái niệm phân loại được thảo luận và gây tranh cãi.
|
Nghệ thuật tâm thần phân liệt, Leo Navratil |
Năm 1950, Navratil dành 6 tháng ở nước ngoài tại Viện Tâm thần học thuộc Bệnh viện Maudsley, London. Trong thời gian này, ông nghiên cứu ấn phẩm "Phép chiếu tính cách trong bức vẽ người" (phương pháp điều tra tính cách) của nhà tâm lý học người Mỹ Karen Machover (1902-1996). Navratil sau đó đã mô tả nghiên cứu của mình về phương pháp kiểm tra bản vẽ của Machover là một thời điểm quan trọng trong công việc của ông trong lĩnh vực tâm thần học và nghệ thuật.
Vào đầu những năm 1950, Navratil đã đề cập đến giá trị chẩn đoán của các bức vẽ mà ông đã áp dụng cho các bệnh nhân ở Gugging sau khi trở về Áo năm 1954. Vì vậy, ông đưa cho họ một gợi ý và yêu cầu họ vẽ bất cứ thứ gì họ nghĩ đến. Do đó, ông đã phát triển phương pháp của riêng mình để xác định tình trạng bệnh nhân từ các tác phẩm được tạo ra theo cách này. Navratil tin rằng chứng loạn tâm thần có thể nâng cao khả năng biểu đạt sáng tạo của một người. Ông đã kiểm tra các tác phẩm nghệ thuật để tìm các kiểu biểu hiện lặp đi lặp lại có thể liên quan đến quá trình rối loạn của bệnh lý. Tuy nhiên, cách tiếp cận này hiện nay được coi là lỗi thời.
|
Oswald Tschirtner hay còn đọc ngắn là "O.T," họa sĩ nổi tiếng nhất mà Leo phát hiện. |
|
Johann Hauser |
Trong ấn phẩm "Schizophrenie und Kunst" (Nghệ thuật và tâm thần phân liệt) năm 1965, Navratil đã thử lần đầu tiên ở góc độ bác sĩ tâm thần và đồng thời là nghệ thuật-lịch sử. Khi thực hiện, ông đề cập đến những người đã hoạt động ở châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Cấu trúc lập luận của cuốn sách rất giống với cấu trúc của tác phẩm của Hans Prinzhorn, "Bildnerei der Psychiatric". Với ấn phẩm của Navratil, lần đầu tiên những bức tranh của các họa sĩ từ bệnh viện tâm thần ở Gugging được bước ra thế giới bên ngoài. Những tác phẩm này được xuất bản dưới các bút danh, khơi dậy sự quan tâm của các nghệ sĩ thời đó, họ bắt đầu đi từ Vienna đến bệnh viện ở Gugging để tìm hiểu người sáng tạo này là ai. Một phản ứng tương tự khi Prinzhorn xuất bản sách vào những năm 1920.
Mặc dù gặp nhiều chỉ trích gay gắt, nhà báo Ernst Klee đã bảo vệ công việc của Navratil rằng:
“Những tác phẩm của người bị bệnh tâm thần được chiêm ngưỡng như một chuyến du ngoạn vào thế giới bên trong của người bệnh. Bệnh nhân được giới thiệu như một sinh vật kỳ lạ. Một người thích phong cảnh kỳ diệu của những chuyến du ngoạn của thế giới bị khóa bên trong của những người bị tâm thần, và tôn vinh các tác phẩm như một tác phẩm nghệ thuật kỳ lạ. Nhưng những người đang vẽ, viết nguệch ngoạc này lại tạo ra các tác phẩm khi bị nhốt trong cũi. Các văn bản và hình ảnh về tâm thần học cũng bị nhốt trong đó: lập dị, vô lý, khiêu dâm, dung tục làm sao! Giá như các nghệ sĩ được đánh giá cao bằng một nửa các tác phẩm của họ thì hay biết mấy”.
Khái niệm được đúc kết bởi Jeans Dubuffet
Jean Philippe Arthur Dubuffet (1901-1985) sinh ra ở Le Havre trong một gia đình kinh doanh rượu thuộc tầng lớp tư sản giàu có. Ông chuyển đến Paris năm 1918 để học hội họa tại Académie Julian, và làm quen với một số nghệ sĩ ở đây. Nhưng chỉ đi học được 6 tháng, ông cảm thấy chương trình học trở nên khó chịu và rời trường để tự học. Ông là một trong những độc giả được truyền cảm hứng từ bộ sưu tập của Hans Prinzhorn.
|
Jean Dubuffet là một trong những ân ngoại đạo bước được vào nhóm đương đại. |
Từ năm 1947 đến 1949, Dubuffet thực hiện ba chuyến đi riêng biệt đến Algeria (thuộc địa Pháp vào thời điểm đó) để tìm thêm cảm hứng nghệ thuật. Tuy nhiên, thứ nghệ thuật mà Dubuffet đã tạo ra khi ông ở đó rất đặc biệt. Ông bị cuốn hút bởi cuộc sống du mục của các bộ lạc ở Algeria ở chỗ họ không ở lại bất kỳ một khu vực cụ thể nào quá lâu và luôn di chuyển. Tính bất bình thường của lối sống này đã thu hút ông và trở thành một phần của Art Brut (Nghệ thuật thô). Vào tháng 6 năm 1948, Dubuffet, cùng với Jean Paulhan và một số người khác chính thức thành lập Hiệp hội Nghệ thuật Quái Đản tại Paris.
Hiệp hội này được dành riêng cho việc khám phá, lưu trữ và triển lãm các tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ ngoài cuộc. Dubuffet sau đó đã lưu trữ một bộ sưu tập nghệ thuật của riêng mình, bao gồm các nghệ sĩ như Aloïse Corbaz và Adolf Wölfli. Bộ sưu tập Art Brut của ông thường được gọi là “bảo tàng không có tường”, vì nó vượt qua và phá bỏ ranh giới các quốc gia và dân tộc.
|
Dubuffet đến thăm bộ sưu tập của mình. |
“Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hoạt động nghệ thuật hoàn toàn thuần khiết, thô sơ, được tác giả của chúng vẽ lại dựa trên những thôi thúc của chính mình. Do đó, nghệ thuật thể hiện khả năng duy nhất là sáng tạo, chứ không phải những khả năng thường thấy trong nghệ thuật văn hóa đại chúng của lũ tắc kè hoa và khỉ.” Jean viết trong truyên ngôn “Art Brut tốt hơn nghệ thuật văn hóa” năm 1949.
Đến những năm 1970, ông đã tích lũy được khoảng 5.000 tác phẩm và tặng bộ sưu tập của mình cho lâu đài Lausanne, Thụy Sĩ vào năm 1972. Sau đó ông tài trợ một phần cho việc cải tạo lâu đài để trở thành phòng trưng bày
Collection de l’art Brut, nơi có tầm 700 tác phẩm.
|
Bên trong phòng trưng bày Collection de l’art Brut. |
Cuối cùng, Dubuffet bắt đầu tìm kiếm một loại hình nghệ thuật mà mọi người đều có thể tham gia và đều có thể giải trí. Ông đã tìm cách tạo ra một tác phẩm nghệ thuật không vướng bận tính học thuật, và tác phẩm của ông thường có vẻ nguyên sơ và khá giống tranh con nít. Tuy nhiên, ông luôn tự hào với những tác phẩm mình làm được.
(còn tiếp...)
Biên tập: Navi
Nhận xét
Đăng nhận xét